II- Hiệp thông với mọi người
a) Hiệp thông với các Giáo hội Kitô
Với Sắc lệnh về đại kết, Công đồng Vaticanô II cho thấy giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Kitô khác đã có sự hiệp thông theo nghĩa hẹp rồi, hiệp thông thực sự dù chưa trọn vẹn. Sự hiệp thông này đặt nền tảng trên lòng tin vào Đức Kitô và bí tích Rửa tội. Các cộng đoàn Kitô khác cũng được gọi là Giáo hội hoặc cộng đoàn Giáo hội, vì họ cũng chứa đựng nhiều yếu tố cấu thành Hội Thánh, tuy không đầy đủ.
Từ đó, Hội Thánh Công giáo không còn gọi các Giáo hội Kitô khác là ly khai, nhưng là anh chị em. Từ nay tất cả các Giáo hội, Công giáo cũng như các Giáo hội Kitô khác, không được lên án nhau, mà cùng nhau tìm về hợp nhất như ước muốn của Đức Kitô. Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là gương xấu rất lớn cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Công cuộc kiến tạo hợp nhất giữa các Giáo hội được gọi là “đại kết”.
“Muốn cho công cuộc đại kết được trung thực và sinh kết quả, phía người Công giáo cần phải có một số thái độ căn bản : trước hết là bác ái, biểu lộ qua sự nhân hậu và lòng khao khát cộng tác mỗi khi có thể với tín hữu các Giáo hội và các Cộng đồng khác ; thứ đến là trung thành đối với Giáo hội Công giáo của mình, dù vẫn không làm ngơ hay phủ nhận những khuyết điểm của một số thành phần trong Giáo hội; ba là phải có óc phân định để biết đánh giá tất cả những gì là tốt đẹp và đáng khen. Sau cùng là chân thành ước ao được thanh tẩy và được đổi mới.” (Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 30)
Công cuộc đại kết có thể được thực hiện trên nhiều bình diện:
– Đại kết về tinh thần: tha thứ cho nhau, sống thánh thiện, cầu nguyện
– Đại kết về thần học: nghiên cứu đạo lý, tìm ra những tương đồng và dị biệt, điều chính điều phụ, nội dung cốt lõi và cách diễn tả.
– Đại kết trong hành động: cộng tác với nhau trong các công tác bác ái nhằm phục vụ nhân loại.
Trong thực tế tại Việt Nam, ngoài các tín hữu Công giáo, dường như chỉ có anh chị em Tin Lành là Kitô hữu, với khoảng 400.000 vào năm 1999 và tăng lên 1.200.000 vào năm 2005.
Trước năm 1975, một số chuyên viên Kinh Thánh của Công giáo và Tin Lành đã làm việc chung với nhau để dịch một phần Kinh Thánh sang tiếng Việt.
Các tín hữu Công giáo có thể học hỏi nơi anh chị em Tin Lành lòng hăng say học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện với Lời Chúa, nhiệt thành loan báo Chúa Giêsu bằng nhiều cách.
Phê bình nói xấu hoặc cạnh tranh là cám dỗ cho các Kitô hữu từ hai Giáo hội. Cần đi theo hướng dẫn của Hội Thánh để nhìn nhận giá trị tích cực của nhau, hướng tới một cuộc đối thoại để cùng làm chứng cho Tin Mừng chứ không tìm củng cố vị thế của mình.
Trong hoạt động dạy giáo lý, cần củng cố đức tin cho học viên. Có những vấn nạn động chạm đến những điều cốt yếu của đức tin Công giáo. Có thể các học viên đã nhiều lần đối diện với những câu hỏi ấy, nên cần được hướng dẫn để có thể "luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng” (1Pr 3, 15-16).
b) Đối thoại với các tôn giáo
Sự hiệp thông với các tôn giáo được hiểu như là tiếp xúc, đối thoại và cộng tác với tín đồ các tôn giáo khác.
Tuyên ngôn Vào thời đại chúng ta (28-10-1965) của Công đồng Vaticanô II và tông huấn Giáo hội tại châu Á số 31 (6-11-1999) của ĐTC Gioan-Phaolô II đã chỉ ra các nguyên tắc cho việc đối thoại với các với các tôn giáo.
Đối thoại liên tôn giáo không phải chỉ là một cách để giúp các bên hiểu biết nhau và làm giàu cho nhau, mà còn là một phần trong chính sứ mạng Phúc Âm hoá.
Hội Thánh nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo, tuy nhiên không phải vì thế mà Hội Thánh quên đi sứ mạng của mình là minh nhiên tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là “đường đi, sự thật và sự sống”.
Trong quá trình đối thoại, “không được bỏ qua những nguyên tắc hay theo chủ nghĩa thoả hiệp giả tạo, trái lại, cả hai bên đều phải đưa ra và tiếp nhận được những bằng chứng giúp nhau tiến tới trên con đường tìm tòi và sống kinh nghiệm tôn giáo, cũng như loại trừ những thành kiến, thái độ bất khoan nhượng và những ngộ nhận về nhau. Chỉ những ai có đức tin Kitô giáo trưởng thành và sâu sắc mới đủ tư cách tham gia việc đối thoại liên tôn chính hiệu.” (Giáo hội tại châu Á số 31).
Cuộc đối thoại cần được thực hiện bằng cuộc sống và bằng tình yêu, với con tim dịu dàng khiêm tốn, cởi mở, có thiện chí lắng nghe nhau, tôn trọng và cảm thông với người khác trong sự dị biệt của họ.
Đó là điều kiện cơ bản để từ đó có thể gặp gỡ, cộng tác, hoà hợp và làm giàu cho nhau, qua những hoạt động cụ thể như trao đổi mang tính hàn lâm giữa các chuyên gia về các truyền thống tôn giáo, cùng nhau hoạt động cho sự phát triển con người toàn diện, bảo vệ các giá trị nhân bản và tôn giáo.
Cuộc gặp gỡ giữa Hội Thánh Công giáo và đại biểu các tôn giáo khác trên thế giới tại Assisi ngày 27-10-1986 cho thấy mọi người có tôn giáo không cần phải từ bỏ truyền thống của mình, vẫn có thể tham gia cầu nguyện và hoạt động cho hoà bình và thiện ích của nhân loại.
Tại Việt Nam, có tín đồ của Phật giáo (khoảng 12 triệu), Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Hồi giáo, Ba Ha’i, Balamon… Trong lịch sử, sự căng thẳng giữa một số Kitô hữu Công giáo và tín đồ Phật giáo không phải là không có, và đôi khi phát xuất từ nhiều động cơ.
Cuộc đối thoại liên tôn mới chỉ được thực hiện ở tầm mức cá nhân hay tập thể nhỏ, qua một vài cuộc gặp gỡ, mừng lễ, giao lưu hữu nghị hoặc hợp tác trong hoạt động từ thiện. Tại Học viện Mục vụ của TGP Sài Gòn, đã có các khóa học về mục vụ đối thoại liên tôn để học hỏi về các tôn giáo, giáo huấn của Hội Thánh về đối thoại liên tôn và kỹ năng thực hành đối thoại liên tôn.
Khá nhiều tín hữu Công giáo còn e dè trong việc gặp gỡ và hợp tác với tín đồ của các tôn giáo, thậm chí không ít người vẫn còn giữ cái nhìn tiêu cực hoặc kết án các tôn giáo khác. Hơn ai hết, giáo lý viên cần học hỏi giáo huấn của Hội Thánh để sống tinh thần hiệp thông và gieo rắc tinh thần hiệp thông ấy cho các thế hệ Kitô hữu trẻ.
“Chúng ta, những người Phật tử và Kitô hữu, chúng ta đang sống trong một thế giới thường quá bị sâu xé bởi sự áp bức, thói ích kỷ, chế độ bộ tộc, những đối lập sắc tộc, trào lưu thủ cựu tôn giáo và bạo lực ; một thế giới trong đó ‘tha nhân’ bị coi và đối xử như là một hữu thể hạ đẳng không phải là người hay như một ai đó phải sợ hãi và, nếu có thể, phải loại trừ. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi, trong tinh thần hợp tác với tất cả các người hành hương thiện chí, tôn trọng và bảo vệ nhân tính chúng của chúng ta trong sự đa dạng xã hội-kinh tế, chính trị và tôn giáo. Bén rễ trong những xác tín tôn giáo khác nhau, chúng ta được mời gọi công khai tố giác mọi sự xấu xa trong xã hội vốn làm hại đến tình huynh đệ ; chữa lành người khác khỏi những gì ngăn cản họ lớn lên trong sự quảng đại vô vị lợi, trở nên những người hòa giải phá đổ các bức tường chia rẽ trong xã hội, và thăng tiến một tình huynh đệ đích thực giữa các cá nhân và các nhóm người.” (Thư chúc mừng của Hồng y Jean-Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Đối Thoại Liên Tôn, dịp lễ Vesakh 2014).
c) Đối thoại với mọi người trong xã hội
Theo thống kê 2005, Việt Nam có khoảng 81% dân số được ghi là những người không theo tôn giáo nào. Trong thực tế, đại đa số sống theo tín ngưỡng dân gian, như niềm tin vào Ông Trời, tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, đời sống tâm linh và nhân sinh quan mang đậm dấu ấn của Tam giáo (Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo). Tín ngưỡng dân gian này ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người dân Việt và trở thành một nền văn hóa tâm linh, nên ngay cả nhiều người tự nhận là vô thần cũng sống theo nhân sinh quan của tín ngưỡng dân gian này.
Cần phải “tập trung chú ý tới hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và triết lý của họ. Nói thế có nghĩa là những tôn giáo, văn hoá và triết lý ấy có thể giúp con người, cá nhân lẫn tập thể, chống lại sự dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì tốt đẹp. Lực lượng tử thần luôn luôn tìm cách cô lập con người, xã hội và các cộng đồng tôn giáo với nhau, gieo rắc nghi ngờ và cạnh tranh, đưa người ta tới chỗ xung đột với nhau. Ngược lại, Thánh Thần luôn nâng đỡ con người đi tìm sự hiểu biết và đón nhận nhau. Thế nên, Thượng Hội Đồng đã có lý khi xem Thánh Thần Thiên Chúa là tác nhân chính yếu của việc đối thoại giữa Hội Thánh với mọi dân tộc, mọi nền văn hoá và mọi tôn giáo.” (Giáo hội tại châu Á số 15).
Để đối thoại với mọi người trong cộng đồng dân tộc, các tín hữu Công giáo Việt Nam cần nhìn nhận và sống những giá trị tích cực trong văn hóa của dân tộc mình. “Người Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời, luôn đề cao các giá trị tinh thần và đạo đức như uống nước nhớ nguồn, thờ cha kính mẹ, tình nghĩa gia đình, tình làng nghĩa xóm, tôn sư trọng đạo, trọng tín nghĩa, khẳng khái, chân thành, thậm chí sẵn sàng chết vì lòng trung nghĩa, đoàn kết hào hùng chống ngoại xâm.” (Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017, số 10)
Hiện nay trong đời sống xã hội, các lễ hội dân gian và nhiều phong trào như tin vào phong thủy, ngoại cảm, đang tạo nên một loại văn hóa tâm linh, thậm chí các tôn giáo đúng nghĩa nhiều khi cũng bị giản lược thành văn hóa tâm linh. Điều xem ra nghịch lý là trong một thế giới khoa học kỹ thuật, tuyên xưng vô thần, nhiều người lại tin vào một quyền lực huyền bí nào đó, vu vơ, mơ hồ, với mong ước được thuận lợi trong đời sống hằng ngày, nhất là về vật chất. Hiện tượng mê tín dị đoan cũng phát xuất từ đó.
Nhiều tín hữu Công giáo cũng chịu sự tác động của văn hóa thời đại này. Không ít Kitô hữu cũng đi nước đôi trong đời sống tôn giáo : một đàng vẫn thực hành những việc đạo đức, nhưng đồng thời lại làm những việc mê tín dị đoan không phù hợp với đức tin Công giáo.
Để có thể đối thoại với mọi người trong xã hội, việc dạy giáo lý phải giúp cho tín hữu Công giáo hiểu niềm tin của mình, xác tín về tính đặc thù của đức tin Công giáo, chứ không phải theo quan niệm đánh đồng “đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành” và cầu xin thần thánh trợ giúp.
Ngoài ra, đạo hiếu là một nhịp cầu hết sức cần thiết và hữu hiệu liên kết các Kitô hữu và mọi người dân Việt. Từ ngày lập quốc đến nay, đạo hiếu đã luôn là rường cột trong nền luân lý của dân tộc Việt Nam. Tinh thần hiếu thảo được thể hiện không những đối với cha mẹ là Hạ Phụ, mà còn đối với Thiên Chúa là Thượng Phụ, với Quân Vương là Trung Phụ.
Việc dạy giáo lý cần cổ võ đặc biệt lòng tôn kính tổ tiên. Trong hằng trăm năm, người Công giáo bị hiểu lầm là theo văn hóa ngoại lai nên từ bỏ ông bà cha mẹ, đặc biệt trong việc cúng giỗ. “Những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, chưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ…) thì được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thư của Bộ Truyền Giáo về việc tôn kính Tổ Tiên, ngày 20-10-1964).
Trong đời sống gia đình, lòng tôn kính tổ tiên và hiếu thảo cũng chính là chứng từ có tính thuyết phục góp phần rất lớn vào công cuộc loan báo Tin Mừng. Trong các khóa giáo lý hôn nhân, cần giúp các bạn trẻ kết hôn với người bên lương (không được rửa tội hoặc có rửa tội) lưu tâm tới tầm quan trọng của điều này.
Cũng thế, các khóa giáo lý cần giúp cho người Công giáo sau khi kết hôn về sống giữa gia đình bên lương, phải trở thành một Kitô hữu thật tốt để làm tỏa sáng vẻ hấp dẫn của đức tin Công giáo. Một bạn trẻ Công giáo kết hôn với người bên lương càng cần xác tín và sống đức tin của mình gấp nhiều lần hơn bình thường.
Việc đối thoại với mọi người trong xã hội cũng đòi các Kitô hữu mở rộng trái tim và đôi tay để hợp tác với mọi người thiện chí trong công cuộc lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con người. Hiện nay hiện tượng xuống cấp về đạo đức và văn hóa trong xã hội là rất đáng lo ngại. Bất công, gian dối, bạo lực, tàn ác, ngày càng lan rộng và trầm trọng. Môi trường sống bị hủy hoại, người nghèo bị bỏ rơi, người yếu thế bị áp bức và loại trừ…
Trước thực trạng đó, phải cấp bách đưa học thuyết xã hội của Giáo hội vào chương trình giáo lý, nhất là cho người trưởng thành. Giáo lý không còn chỉ là dạy “giữ tin xin chịu”, nhưng còn là dạy “làm”, hành động để thăng tiến phẩm giá con người cách toàn diện. Kế hoạch của loan báo Tin Mừng là Phúc Âm hóa con người toàn diện, gồm cả hồn lẫn xác, cả cá nhân và xã hội, cả con người và vũ trụ vật chất.
Để kết
Trong sứ điệp gửi Đại hội giáo lý quốc tế tại Buenos Aires (từ 11 đến 14-7-2017), ĐTC Phanxicô khích lệ các giáo lý viên chu toàn sứ mệnh phục vụ Hội Thánh bằng cách sống mật thiết với Chúa Giêsu và dùng mọi phương thế để loan báo Ngài, trước hết bằng chứng tá cuộc sống.
Mở đầu sứ điệp, ĐTC trích câu của thánh Phanxicô Assisi trả lời các tu sĩ xin thánh nhân dạy cho các vị biết giảng dạy: “Hỡi anh em, khi chúng ta thăm viếng các người đau yếu, giúp đỡ trẻ em và cho người nghèo ăn là chúng ta đã giảng dạy rồi”. ĐTC nói: “Câu trả lời hay đẹp này tóm gọn ơn gọi và nhiệm vụ của giáo lý viên. Giáo lý viên không phải là một công việc hay một nhiệm vụ bên ngoài con người của mình, nhưng là một ơn gọi phục vụ Hội Thánh, đã nhận được từ Chúa và phải thông truyền trong suốt cuộc đời. Giáo lý viên phải luôn luôn quy hướng về lời loan báo ban đầu là ơn thay đổi cuộc sống. Việc loan báo này phải đi kèm đức tin đã hiện diện trong tâm tình tôn giáo của dân tộc chúng ta. Cần phát triển tiềm năng lòng đạo đức và tình yêu thương nằm trong tâm tình tôn giáo bình dân để thông truyền các nội dung đức tin và tạo ra một trường đào tạo giúp vun trồng ơn đã nhận lãnh.
Để được như thế, giáo lý viên phải là người bước đi từ Chúa Kitô và với Chúa Kitô, chứ không phải khởi hành từ các tư tưởng và sở thích của riêng mình. Càng biết lấy Chúa Kitô làm trung tâm điểm, giáo lý viên càng ra khỏi chính mình và gần gũi tha nhân, theo gương Chúa Giêsu sống thân tình với Thiên Chúa Cha rồi gặp gỡ các người đói khát, chữa lành họ và cứu vớt họ.”
Khi được hỏi về nét đặc thù giữa ba vị Giáo hoàng vĩ đại gần đây, ĐHY Blase Joseph Cupich, tổng giám mục Chicago, nói: ĐTC Gioan-Phaolô II dạy cho chúng ta biết ta phải làm gì (What should we do ?), ĐTC Bênêđictô XVI dạy cho ta biết tại sao ta phải làm điều đó (Why should we do ?), còn ĐTC Phanxicô bảo ta làm đi (Do !), và ngài đã làm trước.